1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến
Đầu năm 1945,áchmạngThángTámnăbxh ukraina quân đội Xô-viết liên tiếp giành thắng lợi quyết địnhtrên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước. Ngày 16-4-1945 chiến dịchtiến công Beclin thắng lợi, Đức buộc phải ký văn bản đầu hàng Liên Xô và các nướcđồng minh vô điều kiện, lò lửa chính của chiến tranh thế giới thứ hai bị dập tắt.Ngày 8-8-1945 Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xôvà các lực lượng chống phát xít đối với quân phiệt Nhật đã chấm dứt chiến tranhthế giới thứ hai, tạo điều kiện cho nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địachâu Á trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong nước, trải qua nhiều thử thách cam go và các cuộc diễn tập quantrọng như Cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, Cao trào Dân chủ 1936-1939,phong trào kháng Nhật, cứu nước ngày càng dâng lên mạnh mẽ.
Tình hình quốc tế, trong nước có nhiều thuận lợi đòi hỏi Đảng ta phảicó những quyết sách sáng suốt nhằm đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa giànhchính quyền.
Ngày 9-3-1945, Hộinghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động phong trào kháng Nhật,cứu nước. Ngày 12-3-1945 banhành rộng rãi Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thịquan trọng này đã thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, chủ động và sángtạo của Đảng, chỉ rõ phương hướng và biện pháp hành động cách mạng đúng đắntrong cao trào kháng Nhật, cứu nước, mở đường đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắnglợi.
Từ ngày 15 đến 20-4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc kỳ họp, quyết địnhphát triển lực lượng vũ trang, nửa vũ trang và thống nhất các lực lượng vũtrang thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng 7 chiến khu chống Nhật trong cảnước.
Ngày 16-4-1945, Tổngbộ Việt minh ra Chỉ thị “Về việc tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng” và chuẩnbị thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, tứcChính phủ Lâm thời Cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật, cứu nước dâng lên mạnh mẽ.Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang phát triển nhanh, phong trào đấutranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần diễn rakhắp các địa phương. Nhiều hoạt động được đẩy mạnh như tuyên truyền xung phongcó vũ trang cướp kho thóc của Nhật để cứu đói, xây dựng các đội tự vệ vũ trangdu kích cứu quốc, mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự, phát động chiếntranh du kích ở những nơi có đủ điều kiện, giải phóng từng vừng, mở rộng căn cứđịa cách mạng... Các lực lượng cách mạng đã phối hợp với quần chúng giải phóngmột loạt các xã, châu, huyện thuộc các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, TháiNguyên, Tuyên Quang, Quảng Ngãi, Bắc Giang.
Ngày 12-8-1945, Ủyban Chỉ huy lâm thời khu giải phóng ra mệnh lệnh khởi nghĩa. Ngày 13-8-1945, Ủyban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 14 và15-8-1945, Hộinghị toàn quốc của Đảng bàn kế hoạch phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội tại Tân Trào đã nhiệt liệt tán thànhvà ủng hộ chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn củaMặt trận Việt minh, thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do đồng chí HồChí Minh làm Chủ tịch.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã đồngloạt đứng dậy, tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, chúng ta đã giành đượcthắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, đại bộ phận các tỉnh miền Trung, một phầnở miền Nam và ở các thị xã Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam. Thắnglợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8 đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh,thành phố khác vượt qua mọi khó khăn, gấp rút nổi dậy giành chính quyền. Ngày23-8 khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và các thị xã: Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, HàĐông, Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu. Thắnglợi của khởi nghĩa Sài Gòn ngày 25-8 có ảnh hưởng quyết định đối với khởi nghĩaở các tỉnh miền Nam như Sóc Trăng, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh,Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre, Sa Đéc... Ở Côn Đảo, Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo đãlãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền, làm chủtrên đảo.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa đã giànhthắng lợi hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền trong cả nước thuộcvề tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), trước hàng chục vạn nhândân, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Bản Tuyênngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộnghòa ra đời. (Còn tiếp)
T.S. (Theo Đề cương tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương)
(责任编辑:La liga)